Kiên Giang, lịch sử hình thành theo tiến trình phát triển của đất nước
Theo các tư liệu lịch sử, tỉnh Kiên Giang có lịch sử lâu dài và gắn liền với các sự kiện quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
Trước thế kỷ 17, vùng đất Kiên Giang thuộc lãnh thổ Chân Lạp, hay còn gọi là Mang Khảm, người Kinh gọi là Phương Thành. Dưới thời nhà Nguyễn, diện tích Kiên Giang ngày nay thuộc đất Hà Tiên xưa, một vùng đất được khai phá bởi cha con Mạc Cửu.
Khi Mạc Cửu được chúa Nguyễn Phúc Chu ban làm Tổng binh trấn Hà Tiên, đất Hà Tiên khi đó bao gồm vùng đất rộng lớn với 7 xã thôn tương ứng với lãnh thổ của các tỉnh: Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang ngày nay.
Sau khi chúa Nguyễn Ánh lấy lại được đất Hà Tiên từ tay người Xiêm La, năm 1788 chúa Nguyễn đem 2 đạo Kiên Giang và Long Xuyên nhập vào dinh Vĩnh Trấn. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long.
Cùng với việc thiết lập hệ thống hành chính thống nhất đất nước, nhà vua bắt tay vào chỉnh đốn vùng đất Hà Tiên.
Hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên được cải tổ lại, thuộc về trấn Vĩnh Thanh. Năm 1808 (Gia Long năm thứ 7), đạo Kiên Giang được đổi thành huyện Kiên Giang. Triều Minh Mạng, Kiên Giang thuộc phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên.

Tỉnh Hà Tiên lúc này gồm 1 phủ là Quan Biên (đổi tên từ phủ An Biên) thống lĩnh 8 huyện (là Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang, Sài Mạt, Linh Quỳnh, Châu Sum, Cần Vọt, Vũng Thơm).
Từ thời vua Tự Đức đến trước khi thực dân Pháp xâm lược năm 1867, tỉnh Hà Tiên gồm 1 phủ An Biên, 3 huyện là Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên.
Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh Hà Tiên cũ được tách thành 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh là Hà Tiên và Rạch Giá. Hai tỉnh này tồn tại độc lập trong suốt gần 1 thế kỷ.
Năm 1956, theo Sắc lệnh số 143-NV, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận (gồm Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc) được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang. Đến tháng 5/1965, tỉnh Hà Tiên được tái lập.
Năm 1957, theo Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ ấn định các đơn vị hành chính tỉnh Kiên Giang gồm 6 quận (Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Hà Tiên, Phú Quốc).
Ngày 20/9/1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc. Theo Nghị quyết này, địa bàn tỉnh Rạch Giá sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới: Tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận. An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh. Phần còn lại của tỉnh Rạch Giá cùng với toàn bộ diện tích tỉnh Long Châu Hà và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Tháng 2/1976, Chính phủ quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tỉnh Rạch Giá và ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc vốn thuộc tỉnh Long Châu Hà trước đó.
An Giang – địa bàn cuối cùng sáp nhập vào bản đồ Đại Việt
Theo Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang,An Giang tọa lạc ở vị trí địa lý tương đối đặc biệt, ở địa đầu biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nơi đầu nguồn sông Mê Kông chảy vào lãnh thổ Việt Nam. Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832.
Tỉnh An Giang là địa bàn cuối cùng sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, khi Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận, cho lệ vào dinh Long Hồ, ranh giới hành chính lúc đó không rõ ràng. Thời kỳ đầu cũng chưa hình thành các xã, ấp, thôn. Cho đến khi vua Gia Long thống nhất đất nước mới có thôn ấp được lập nhưng còn rất thưa thớt.

Theo Châu bản triều Nguyễn ghi chép lại, năm 1832, triều thần nhà Nguyễn tấu trình: “… đất Châu Đốc lại là nơi rất xung yếu. Nhưng dân cư chưa được đông đúc, địa lợi chưa được mở mang, gần đây có Vĩnh Long, đất rộng, dân giàu, hơn cả mọi hạt. Vậy xin tách lấy 2 huyện Vĩnh An và Vĩnh Định thuộc Vĩnh Long, gộp với đất Châu Đốc, lập làm tỉnh An Giang”.
Sách Đại Nam thực lục chính biên cũng ghi nhận 190 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), năm Minh Mạng thứ 13 trong buổi thiết triều, sau khi nghe bộ lại tấu trình, vua Minh Mạng đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định thành, đổi “ngũ trấn” thành “lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang.
Với ý nghĩa là vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an bình, tên gọi An Giang ra đời vào năm 1832. So với địa giới hành chính ngày nay bao gồm toàn bộ tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp và huyện Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc Liêu).
Năm 1868, thực dân Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Theo đó, tỉnh An Giang bị đổi tên thành tỉnh Châu Đốc.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện.
Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo Chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà.
Tháng 2/1976, thực hiện Nghị quyết 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tỉnh An Giang được tái lập.
Sáp nhập An Giang, Kiên Giang: Vựa lúa, vựa cá khổng lồ với hơn 1 triệu hecta gieo trồng lúa, sản lượng tới 8 triệu tấn; từ trung tâm tỉnh Kiên Giang đi An Giang hết bao lâu?
Nếu hai tỉnh Kiên Giang và An Giang sáp nhập, hợp nhất thì chắc chắn đây sẽ là vựa lúa, vựa thủy sản lớn nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong đó, Kiên Giang là tỉnh sản xuất lúa lớn nhất tại vựa lúa ĐBSCL với diện tích gieo trồng hơn 700.000ha/năm, sản lượng đạt từ 4,4 – 4,5 triệu tấn/năm. Ngoại trừ huyện đảo Kiên Hải và thành phố Phú Quốc, các huyện, thành phố còn lại đều có sản xuất lúa, trong đó riêng huyện Hòn Đất mỗi năm đạt sản lượng hơn 1 triệu tấn.
Kiên Giang cũng phát triển mạnh nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của tỉnh năm 2024 ước đạt 814.991 tấn, trong đó sản lượng thủy sản khai thác đạt 430.821 tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 384.170 tấn. Riêng sản lượng tôm nước lợ đạt trên 130.000 tấn/năm.
Kiên Giang có đội tàu khai thác 10.000 chiếc, ngành thủy sản giải quyết việc làm cho gần 200.000 người trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, dịch vụ và chế biến, xuất khẩu thủy sản, trong đó trên 70.000 người lao động trong lĩnh vực khai thác thủy sản.

Theo UBND An Giang, tỉnh có diện tích và sản lượng lúa lớn thứ 2 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Hằng năm, ngành nông nghiệp sản xuất 600.000 – 620.000 ha lúa cho sản lượng hơn 4 triệu tấn/năm.
Theo thông tin trên google map, từ trung tâm tỉnh Kiên Giang là TP. Rạch Giá đến trung tâm tỉnh An Giang là TP.Long Xuyên khoảng 100km.
Nguồn: https://danviet.vn/sap-nhap-an-giang-kien-giang-se-thanh-vua-lua-khong-lo-toi-8-trieu-tan-tu-trung-tam-tinh-kien-giang-di-an-giang-the-nao-la-nhanh-nhat-d1324295.html